Làm tướng nhà Lưu Tống Lý An Dân

Thiếu thời

Ông nội là Nghi, làm Vệ quân tham quân. Cha là Khâm Chi, hiệu là Điện trung tướng quân, được bổ làm Tiết (huyện) lệnh. Ông theo cha đến ở huyện, năm Nguyên Gia thứ 27 (450) nhà Lưu Tống, huyện bị Bắc Ngụy chiếm, ông soái bộ khúc quay về miền nam.

Lưu Thiệu giết Văn đế (453), sai An Dân lãnh một cánh quân. Ông quy hàng Hiếu Vũ đế, được giữ hiệu Kiến uy tướng quân, bổ làm Tả quân cho Lỗ Sảng. Khi Sảng phản, An Dân trốn về kinh sư, được ban chức Lãnh quân hành tham quân, thăng làm Tả vệ điện trung tướng quân. Trong những năm Đại Minh (457 – 464), quân Ngụy xâm phạm Từ, Duyện, lấy An Dân làm Kiến uy phủ tư mã, Vô Diêm lệnh, ban hiệu Điện trung tướng quân, lãnh quân dẹp loạn ở Hán Xuyên.

Thời Minh đế

Tấn An vương Lưu Tử Huân xưng đế, Minh đế ban cho An Dân hiệu Vũ vệ tướng quân, lãnh thủy quân, bổ làm Kiến An vương Tư đồ thành cục tham quân, đánh Giả Kỳ Hồ, Bạch Địch Phổ, Thát Quật, đều thắng, được ban hiệu Tích xạ tướng quân, Quân chủ. Trương Hưng Thế chiếm cứ Tiền Khê, lương hết, bị địch tấn công. Ông soái mấy trăm chiến thuyền, vượt Ngũ Thành của địch, đưa gạo cho Hưng Thế. Quân chủ Thẩm Trọng, Vương Trương của địch đưa quân từ Ngư Quý Khẩu muốn chăn ngang sông, An Dân tiến quân hợp sức chiến đấu mà phá được. Lại đánh Thước Vĩ, Giang Thành, đều có công.

Giúp Trương Vĩnh, Thẩm Du Chi dẹp Tiết An Đô ở Bành Thành, đài quân thất bại, An Dân ở phía sau chặn địch, lui về giữ Hạ Bi. Được ban hiệu Ninh sóc tướng quân, đồn thú thành Hoài Dương. Luận công Ngư Quý Khẩu, được phong Thiệu Vũ huyện tử, thực ấp 400 hộ. Lại theo Ngô Hỉ, Thẩm Du Chi đánh Bắc Ngụy, đến Tuy Khẩu thì thua trận, lui về giữ Túc Dự. Hoài Bắc đã mất, Minh đế có sắc để ông ở lại đồn thú Giác Thành. Được ban hiệu Ninh sóc tướng quân, Nhũng tòng bộc xạ (chức quan đứng đầu thị vệ trong cung). Đồn thú Tứ Khẩu, lãnh thủy quân phòng bị men sông Hoài cho đến Thọ Xuân. Ngụy sai Trường Xã công lập doanh trại hơn 10 dặm muốn cướp Nhữ Âm, Dự Châu thứ sử Lưu Miễn đánh lui được. Kinh Đình thú chủ Thăng Khất Nô của Ngụy bỏ thành quy hàng, An Dân soái thủy quân đi trước tấn công, phá Kinh Đình, cắt đứt đường về bến sông của địch. Được thăng làm Ninh sóc tướng quân, Quan quân tư mã, Quảng Lăng thái thú, Hành (coi việc) Nam Duyện Châu sự.

Tiêu Đạo Thành ở Hoài Âm, An Dân ở xa vấn muốn kết giao, Minh đế đâm ra nghi ngờ, dời ông làm Quan quân tư mã của Lưu Uẩn, Ninh sóc tướng quân, Kinh Triệu thái thú, lại ban hiệu Ninh sóc tướng quân, Ti Châu thứ sử, lãnh Nghĩa Dương thái thú, rồi không trao, giao lại chức cũ, rồi lại không trao, đổi thụ Ninh sóc tướng quân, Sơn Dương thái thú. Cuối thời Thái Thủy (465 – 471), dân Hoài Bắc nổi dậy muốn về nam, triều đình lấy An Dân làm Đốc tiền phong quân sự, lại xin tiếp viện, không thành công nên quay về. Được ban giai Việt kị hiệu úy, lại làm Ninh sóc tướng quân, Sơn Dương thái thú. Tam Ba nhiễu loạn, thái thú Trương Đạm bỏ Phù Thành mà chạy, lấy ông Giả tiết, Đô đốc thảo Thục quân sự, Phụ sư tướng quân. Ngũ Lão gây loạn Hán Trung, có sắc gọi An Dân lui quân về Ngụy Hưng thì việc đã xong, nên ông về giữ Hạ Khẩu.

Thời Hậu Phế đế

Đầu những năm Nguyên Huy (473 – 477), được ban chức Đốc Ti Châu quân sự, Ti Châu thứ sử, lãnh Nghĩa Dương thái thú, giả tiết, tướng quân như cũ. Gặp lúc Quế Dương vương Lưu Hưu Phạm khởi binh, An Dân dừng lại, điều quân cứu viện kinh sư. Được gọi về thụ Tả tướng quân, gia Cấp sự trung.

Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố khởi binh, bọn Quan quân Hoàng Hồi, Du kích tướng quân Cao Đạo Khánh, Phụ quốc tướng quân Tào Hân Chi đều ngầm biểu tỏ ý ủng hộ, mà Du kích tướng quân Cao Đạo Khánh lãnh quân đi dẹp, Tiêu Đạo Thành lo ông ta gây biến, sai An Dân cùng Nam Dự Châu thứ sử Đoạn Phật Vinh đi theo để phòng. Ông đến Kinh Khẩu, phá quân Cảnh Tố ở Cát Kiều. Bình xong Cảnh Tố, triều đình để An Dân ở lại làm Hành Nam Từ Châu sự. Thành cục tham quân Vương Huýnh Tố vốn là thân tín của An Dân, cướp 2 xúc lụa, ông gạt nước mắt chém hắn ta, mọi người đều khiếp phục. Được thụ Quan quân tướng quân, Kiêu vệ tướng quân, không trao hiệu. Chuyển làm Chinh lỗ tướng quân, Đông trung lang tư mã, Hành Hội Kê quận sự 。

An Dân sắp đi miền đông, Tiêu Đạo Thành bày tiệc để tiễn, say sưa 1 ngày 1 đêm. Ông ngầm bày tỏ vận nhà Tống sắp hết, mấy lần quay về. Thương Ngô vương buông thả bạo ngược, An Dân bày kế đón Giang Hạ vương Lưu Tễ ở miền đông mà khởi binh, Đạo Thành không cho, nên thôi.

Thời Thuận đế

Thương Ngô vương bị phế, Đạo Thành triệu ông làm Sứ trì tiết, Đốc bắc thảo quân sự, Quan quân tướng quân, Nam Duyện Châu thứ sử. Thẩm Du Chi khởi binh, Đạo Thành triệu An Dân giữ nguyên chức trấn Bạch Hạ, sửa con hào của thành, gia hiệu Chinh lỗ tướng quân. Tiến quân về phía tây, lại tiến hiệu Tiền tướng quân. Đài quân đến Bồn Thành, Thẩm Du Chi đã bình xong, vẫn thụ Đốc quân sự của các quận Nghĩa Dương thuộc Dĩnh Châu, Ti Châu, Dĩnh Châu thứ sử, trì tiết, tướng quân như cũ.

Năm Thăng Minh thứ 3 (479), được thăng làm Tả vệ tướng quân, lãnh Vệ úy. Đạo Thành lên ngôi, là Nam Tề Cao đế, được làm Trung lãnh quân, phong Khang Nhạc hầu, thực ấp 1000 hộ.